Bài viết phân tích về “Sự khác nhau giữa biện pháp thuế chống bán phá giá và biện pháp thuế đối kháng theo quy định của WTO” để quý khách hàng tham khảo các quy định pháp luật liên quan:
1. Sự khác nhau giữa biện pháp thuế chống bán phá giá và biện pháp thuế đối kháng
Bài viết phân tích về “Sự khác nhau giữa biện pháp thuế chống bán phá giá và biện pháp thuế đối kháng theo quy định của WTO” để quý khách hàng tham khảo các quy định pháp luật liên quan:
Sự khác nhau giữa biện pháp thuế chống bán phá giá và biện pháp thuế đối kháng theo quy định của WTO
1.1 Khái niệm.
Thuế đối kháng là biện pháp thuế quan đặc biệt của một quốc gia được áp dụng để bù đắp nhũng thiệt hại do những biện pháp trợ cấp của Chính phủ một quốc gia khác đối với hoạt động sản xuất, xuất khẩu trong thương mại.
Thuế đối kháng là biện pháp thương mại nhằm chống lại hành vi thương mại không lành mạnh của một số quốc gia cụ thể.
Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ xung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường, do cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ban hành, đánh vào sản phẩm nhập khẩu bán phá giá trên thị trường của mình.
Thuế chống bán phá giá nhằm bù đắp hoặc hạn chế các thiệt hại vật chất do bán phá giá gây ra, vì vậy thuế này mang ý nghĩa tự vệ. Chính vì thế mức thuế suất được áp dụng không được cao hơn biên độ bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu được bán phá giá.
1.2. Điều kiện áp dụng.
Biện pháp thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi: hàng hóa đó được đưa vào kinh doanh trên thị trường quốc gia nhập khẩu với giá trị thấp hơn giá trị thông thường của nó; nghành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu bị thiệt hại về mặt vật chất; có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá với những thiệt hại vật chất đó.
Thuế đối kháng: Một thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi Thành viên đó đã xác định được, phù hợp với những quy định dưới đây, là sản phẩm đó được nhập vào lãnh thổ của mình khi có sự gia tăng nhập khẩu, tương đối hay tuyệt đối so với sản xuất nội địa, và theo đó có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. (Điều II.1-SCM)Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp đối kháng (mà chủ yếu là thuế đối kháng) chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống trợ cấp, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:
– Hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp (với biên độ trợ cấp – tức là trị giá phần trợ cấp trên trị giá hàng hoá liên quan – không thấp hơn 1%);
– Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);
– Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại nói trên.
1.3. Mục đích áp dụng.
Biện pháp thuế đối kháng là biện pháp thương mại nhằm chống lại hành vi thương mại không lành mạnh của một hoặc một số quốc gia cụ thể (nguyên tắc Tối huệ quốc không áp dụng trong trường hợp này). Mức thuế đối kháng được áp đặt không cao hơn mức trợ cấp Chính phủ liên quan, áp dụng trong khoảng thời gian nhất định và được tháo dỡ ngay khi các biện pháp trợ cấp không còn được áp dụng. Điều V.1 SCM: “Một thành viên sẽ chỉ áp dụng biện pháp tự vệ trong giới hạn cần thiết để ngăn cản hay khắc phục tổn hại nghiêm trọng và để tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh. Nếu một biện pháp hạn chế định lượng được sử dụng, thì biện pháp này sẽ không làm giảm số lượng nhập khẩu dưới mức nhập khẩu trung bình của 3 năm đại diện gần nhất có số liệu thống kê, trừ khi có sự biện minh rõ ràng rằng cần có một mức khác để ngăn ngừa hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng. Các Thành viên sẽ chọn biện pháp thích hợp nhất để thực hiện được các mục tiêu này.”
Thuế chống bán phá giá là loại thuế nhằm chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng nhập khẩu bán phá giá gây ra. Trên thực tế, thuế chống bán phá giá được nhiều nước sử dụng như một hình thức “bảo hộ hợp pháp” đối với sản xuất nội địa của mình. Để ngăn chặn hiện tượng lạm dụng biện pháp này, các nước thành viên WTO đã cùng thoả thuận về các quy định bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá, tập trung trong một Hiệp định về chống bán phá giá của WTO – Hiệp định ADA.
1.4. Đối tượng áp dụng.
Biện pháp đối kháng nhằm vào các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do nước nhập khẩu tiến hành và thuế trợ cấp, nếu có, áp dụng đối với nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài) chứ không nhằm vào chính phủ nước ngoài đã thực hiện việc trợ cấp (WTO quy định các cơ chế xử lý khác mang tính đa phương cho trường hợp này). Biện pháp thuế đối kháng chỉ được áp dụng đối với trường hợp thương mại có trợ cấp Chính phủ. Những hoạt động thương mại không lành mạnh do bản thân các doanh nghiệp thực hiện sẽ phải được điều chỉnh bởi biện pháp thương mại khác (thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu bán phá giá).
Thuế chống bán phá giá đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải là thuế áp đặt chung cho hàng hoá của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra những Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế chống phá giá, tức là nếu hàng hoá bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc giá khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống phá giá thuộc vào biên độ phá giá của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá đã được xác định.
1.5. Hiệu lực hồi tố.
Sau khi tham gia tham vấn, nguyên đơn xác định chác chắn là có trợ cấp và có tổn hại thực tế thì có thể đánh thuế chống đối kháng trừ việc trợ cấp được rút bỏ.
Trình hồi tố: cơ quan chức năng của quốc gia nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ Chính phủ hay nhà xuất khẩu nào có cam đoan đã được chấp thuận cung cấp định kỳ thông tin liên quan tới việc cam đoan và cho phép kiểm tra lại các tông số liên quan. Trong trường hợp phát hiện có vi phạm cam đoan, thì căn cứ vào SCM và các quy định của Hiệp định GATT, cơ quan chức năng của quốc gia nhập khẩu có thể áp dụng ngay những biện pháp tạm thời trên cơ sở thông tin tối đa có được. Trong trường hợp đó có thể đánh thuế đối kháng chính thức.
Về hiệu lực hồi tố của thuế chống bán phá giá, Điều X-ADA đã quy định:
-Các biện pháp và mức thuế tạm thời chỉ được áp dụng đối với hàng nhập khẩu sau khi đã được thông qua.
-Bất kỳ sự khác biệt (tăng) nào giữa mức thuế tạm thời và mức thuế cuối cùng đều không được thu trong giai đoạn tạm thời, và bất kỳ khoản thuế nào (khi mức thuế cuối cùng ít hơn mức thuế tạm thời) cũng phải được thanh toán nhanh chóng.
-Mức thuế chống bán phá giá cuối cùng có thể được áp dụng với hiệu lực hồi tố 90 ngày trước các biện pháp tạm thời trong những trường hợp nhất định.
1.6. Thời hạn áp dụng.
Về thời hạn áp thuế chống bán phá giá: Theo quy định của WTO, việc áp thuế chống bán phá giá không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có Quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát gần nhất. Trước khi hết thời hạn đó, cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu phải tiến hành rà soát toàn bộ việc bán phá giá. Nếu việc kết luận cho thấy hiện tượng bán phá giá vẫn còn và tiếp tục gây thiệt hại thì thuế chống bán phá giá vẫn có thể được tiếp tục áp dụng (Điều XI.3-ADA).
Thuế đối kháng là một biện pháp phòng vệ thương mại mang tính tạm thời, chỉ có thể áp dụng trong khoảng thời gian và trong chừng mực cần thiết để đối kháng lại việc trợ cấp đang gây ra thiệt hại. Về nguyên tắc biện pháp thuế đối kháng phải chấm dứt sau 5 năm được áp dụng. (Điều VII-SCM) Tuy nhiên, thời hạn này có thể được kéo dài hơn trong trường hợp nước nhập khẩu có lý do để tin rằng việc chấm dứt áp dụng thuế đối kháng có khả năng làm cho trợ cấp và thiệt hại tiếp diễn hoặc tái diễn: “Toàn bộ thời gian áp dụng một biện pháp tự vệ kể cả thời gian áp dụng biện pháp tạm thời, thời gian bắt đầu áp dụng và bất kỳ sự gia hạn nào không được vượt quá 8 năm.” (Điều VII-SCM) Trong thời gian chờ kết luận của việc xem xét đó, nước nhập khẩu có thể tiếp tục duy trì thuế đối kháng. Trong thời gian áp dụng thuế đối kháng cơ quan chức năng của nước nhập khẩu sẽ xem xét lại nhu cầu có tiếp tục đánh thuế đối kháng không, khi tự mình thấy cần hoặc theo yêu cầu của bên có quan tâm khi có bằng chứng thực tế chứng minh nhu cầu cần xem xét lại việc đánh thuế.
1.7. Phương pháp tính thuế.
Để xác định hàng hoá nhập khẩu có được trợ cấp hay không, cơ quan điều tra nước nhập khẩu sẽ tiến hành tính toán mức trợ cấp của hàng hoá đó. Phương pháp tính toán chi tiết tuân thủ pháp luật của nước điều tra về vấn đề này, nhưng về cơ bản việc tính toán sẽ theo nguyên tắc sau đây của WTO:
– Nếu Nhà nước cho doanh nghiệp vay một khoản với mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất thương mại bình thường cho khoản vay tương tự: Mức trợ cấp được tính là phần chênh lệch giữa 2 mức lãi suất này;
– Nếu Nhà nước bảo lãnh vay với phí bảo lãnh thấp hơn chi phí mà doanh nghiệp phải trả cho khoản vay thương mại tương tự nếu không có bảo lãnh của Nhà nước: Mức trợ cấp sẽ được tính là phần chênh lệch giữa 2 mức này;
– Nếu Nhà nước mua hoặc cung cấp hàng hoá, dịch vụ với giá mua cao hơn mức hợp lý hoặc giá cung cấp thấp hơn mức hợp lý (xác định theo các điều kiện thị trường của hàng hoá/dịch vụ liên quan): mức trợ cấp là mức chênh lệnh giá.
Biên độ trợ cấp được tính theo phần trăm mức trợ cấp trên trị giá hàng hoá.
Mức thuế chống bán phá giá được xác định theo biên độ phá giá và trong mọi trường hợp không được cao hơn biên độ phá giá. Một số nước có quy định áp dụng mức thuế chống bán phá giá thấp hơn biên độ phá giá nếu mức đó đã đủ để loại bỏ thiệt hại. Về nguyên tắc mức thuế chống bán phá giá được tính riêng cho từng nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài và không cao hơn biên độ giá của họ; trong trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được lựa chọn để tham gia cuộc điều tra thì mức thuế chống bán phá giá áp dụng cho họ không cao hơn biên phá giá trung bình của tất cả nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều tra.
2. Những rủi ro pháp lý đối với doanh nghiệp sau khi gia nhập WTO
Về bản chất, WTO là một tập hợp các quy tắc thương mại chung, làm khuôn mẫu điều chỉnh và định hướng hoạt động thương mại quốc tế, tạo ra một sân chơi chung, bằng một luật chơi chung cho doanh nghiệp các nước trong hội nhập. Điều này cũng đồng nghĩa với việc WTO mang lại những đảm bảo an toàn về pháp lý cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình này.
Những rủi ro pháp lý “hữu hình”
Tuy nhiên, cần nhận thức một cách đầy đủ rằng, các quy tắc thương mại trong WTO là kết quả của một quá trình đàm phán lợi ích, trong đó một mặt các quốc gia phải cam kết mở cửa thị trường, mặt khác họ lại tạo ra các công cụ pháp lý để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Trong không ít trường hợp, những công cụ được thiết lập nhân danh thương mại công bằng, an ninh an toàn, bảo vệ môi trường… lại được sử dụng vì mục tiêu bảo hộ, và do đó chúng trở thành những rào cản, rủi ro pháp lý “hữu hình” đối với doanh nghiệp xuất khẩu.
Có thể kể đến một số loại “rủi ro” đã được ghi nhận trong WTO như sau:
Các hàng rào kỹ thuật (TBT) và vệ sinh động thực vật (SPS)
Tại sao là rủi ro?
Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) và Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) của WTO cho phép các quốc gia áp đặt một hệ thống quy định về các tiêu chuẩn kỹ thuật và những quy tắc vệ sinh dịch tễ mà hàng hóa nhập khẩu bắt buộc phải tuân thủ. Về nguyên tắc, các quốc gia phải áp dụng các quy định này vì mục đích chính đáng (an ninh quốc gia, chống gian lận, bảo vệ an toàn sức khoẻ, tính mạng con người, động thực vật…), trên cơ sở các căn cứ khoa học và không phân biệt đối xử đối với hàng hóa từ các nước xuất khẩu khác nhau (trừ trường hợp nông phẩm từ các nước hay vùng nhiễm dịch), giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu… nhằm đảm bảo rằng các quy định này không trở thành những rào cản không cần thiết đối với thương mại.
Trên thực tế, do mỗi quốc gia đều có quyền tự thiết lập một hệ thống tiêu chuẩn của riêng mình (các tiêu chuẩn quốc tế chỉ mang tính khuyến nghị, không bắt buộc áp dụng), không ít những trường hợp các tiêu chuẩn và quy tắc vệ sinh này trở thành rào cản khiến hàng hóa từ các nước xuất khẩu, đặc biệt là các nước đang phát triển, không thể tiếp cận được thị trường.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật thường bao gồm 4 nhóm:
(1) Tiêu chuẩn liên quan đến đặc tính của sản phẩm;
(2) Tiêu chuẩn liên quan đến quy trình và phương pháp sản xuất có ảnh hưởng đến đặc tính của sản phẩm;
(3) Tiêu chuẩn, quy tắc về thuật ngữ và ký hiệu đối với sản phẩm;
(4) Các yêu cầu về đóng gói và ghi nhãn mác.
Trong khi các tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng đối với hàng hóa nói chung, các quy tắc vệ sinh dịch tễ (kiểm dịch động thực vật) chỉ áp dụng đối với nông phẩm (sản phẩm thô hoặc đã chế biến) nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm, tránh các bệnh lây nhiễm từ vật nuôi, cây trồng, tránh các loại sâu và dịch bệnh. WTO cho phép các quốc gia được áp dụng các quy tắc kiểm dịch động thực vật tạm thời để đề phòng lan truyền dịch ngay cả khi chưa có đủ bằng chứng khoa học và họ có quyền phân biệt đối xử giữa nông phẩm có xuất xứ khác nhau.
Các sản phẩm thường bị áp đặt các điều kiện kiểm dịch vệ sinh dịch tễ bao gồm:
– Rau và hoa quả tươi.
– Nước quả và các chế phẩm thực phẩm.
– Thịt và các sản phẩm thịt.
– Các sản phẩm sữa.
– Các sản phẩm thực phẩm chế biến.
Các biện pháp hạn chế rủi ro
– Tập hợp thông tin về các tiêu chuẩn kỹ thuật và biện pháp kiểm dịch của nước nhập khẩu (để biết trước các điều kiện đối với hàng hóa trước khi xuất khẩu).
– Thiết lập hệ thống chất lượng ổn định (để đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn ngay trong quá trình sản xuất sản phẩm).
– Hiểu biết đầy đủ về các hạn chế của WTO đối với quyền quyết định các tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ của các quốc gia để tự khiếu kiện hoặc thông qua Nhà nước khiếu kiện bảo vệ quyền lợi khi cần thiết.
Các biện pháp thương mại công bằng
Tại sao là rủi ro?
Trong thực tế thương mại quốc tế, một số hiện tượng không lành mạnh như hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá hay được trợ cấp có thể bóp méo các điều kiện cạnh tranh, làm ảnh hưởng đến nền sản xuất nước nhập khẩu. Do đó, WTO cho phép các quốc gia được tiến hành các biện pháp để đem lại “công bằng” trong những trường hợp như vậy bằng cách áp đặt thuế bổ sung (hoặc hạn chế nhập khẩu) đối với hàng hóa liên quan. Hiệp định về chống bán phá giá và chống trợ cấp của WTO quy định một loạt các điều kiện về nội dung và thủ tục mà nước nhập khẩu cần phải tuân thủ để có thể áp đặt các biện pháp này.
Về nguyên tắc, hàng hóa nhập khẩu vào một nước chỉ có thể bị áp đặt thuế chống bán phá giá hay trợ cấp nếu qua điều tra cho thấy:
(1) Hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá hoặc được trợ cấp;
(2) Có thiệt hại đáng kể đối với ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa nước nhập khẩu;
(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá (trợ cấp) và thiệt hại nói trên.
Thủ tục điều tra được tiến hành nếu có đơn kiện hợp lệ của ngành sản xuất trong nước và phải áp dụng đầy đủ các trình tự đảm bảo quyền tự bảo vệ của các bên.
Vấn đề là trong thực tế, cơ quan điều tra nước nhập khẩu có quyền khá lớn trong việc điều tra và ra quyết định trong các vụ kiện chống bán phá giá, trợ cấp, vì vậy chuyện họ có thể thiếu khách quan trong điều tra, bênh vực doanh nghiệp nội địa, ra quyết định bất lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng là điều dễ hiểu. Hiện tượng này đặc biệt dễ xảy ra đối với các doanh nghiệp từ những nước chưa được xem là có nền kinh tế thị trường như Việt Nam. Ngoài ra, vì các vụ kiện này được khởi xướng bởi ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu, nên khả năng xảy ra cũng lớn hơn.
Các biện pháp hạn chế rủi ro
– Hiểu biết đầy đủ về bản chất của các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp.
– Tham gia tích cực vào các vụ kiện (để có được kết luận điều tra có lợi).
– Có biện pháp chủ động (điều chỉnh thị phần, giá, tốc độ gia tăng khối lượng nhập khẩu tại các thị trường…) ngay khi ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu tạo sức ép hay có nguy cơ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp.
Biện pháp tự vệ
Tại sao lại rủi ro?
WTO cho phép nước nhập khẩu có thể tiến hành các biện pháp hạn chế nhập khẩu tạm thời đối với một loại hàng hóa nếu sau khi điều tra thấy rằng, có sự gia tăng mạnh về khối lượng nhập khẩu hàng hóa đó, gây ra (hoặc đe dọa gây ra) thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa liên quan. Cụ thể, nước nhập khẩu có thể tăng thuế nhập khẩu, đặt hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng hóa liên quan từ tất cả các nước.
Trong những trường hợp như vậy, rủi ro có thể xảy ra đối với hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp ngay cả khi lượng hàng xuất khẩu của họ không lớn và họ hoàn toàn cạnh tranh công bằng.
Các biện pháp hạn chế rủi ro
Trên thực tế, các nước thường ít sử dụng biện pháp tự vệ (mặc dù họ vẫn có toàn quyền điều tra, quyết định như trong các vụ kiện chống bán phá giá, trợ cấp) bởi hệ quả kéo theo thường khá lớn (bởi họ phải dự kiến đến các cách thức bồi thường thương mại đối với các nước có hàng hóa bị áp đặt biện pháp tự vệ). Tuy nhiên, đây vẫn là một rủi ro mà doanh nghiệp phải tính đến khi xuất khẩu hàng hóa (bằng cách có hiểu biết đầy đủ về các nguyên tắc tự vệ, có biện pháp điều chỉnh thị trường thích hợp trong trường hợp bị áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu…).
Những rủi ro pháp lý khác
– Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) trong WTO (TRIPS) quy định một loạt các nguyên tắc bảo hộ quyền SHTT. Đa số các nguyên tắc này cũng đã được công nhận và pháp điển hóa ở Việt Nam. Vấn đề là việc thực thi quyền SHTT ở nước ta cho đến nay vẫn còn rất nhiều bất cập, do đó doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa chú ý nhiều đến việc tự bảo vệ các quyền SHTT của mình. Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc hàng hóa Việt Nam sẽ tiếp cận những thị trường mà ở đó quyền SHTT được bảo hộ rất nghiêm ngặt. Như vậy, nếu không nhanh chóng nhận thức các quyền và thực hiện các biện pháp để bảo hộ quyền SHTT của mình ở các nước thì rủi ro và kéo theo đó là thiệt hại sẽ là rất lớn.
– Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động thương mại của doanh nghiệp Việt Nam sẽ được áp dụng các nguyên tắc pháp lý chung như nguyên tắc tối huệ quốc (hàng hóa được đối xử bình đẳng với hàng hóa từ các nước xuất khẩu khác), đối xử quốc gia (hàng hóa được đối xử bình đẳng với hàng hóa nội địa nước nhập khẩu)… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các quy tắc xương sống của WTO này đều có ngoại lệ (vì mục tiêu an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường…). Do đó, doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến những biện pháp áp dụng quyền ngoại lệ này của các quốc gia khi xuất khẩu hàng hóa.
Những rủi ro pháp lý “vô hình”
Đối với doanh nghiệp Việt Nam, ngoài những rủi ro pháp lý “hữu hình” có thể gặp phải như đã nói trên, những rủi ro khác, xuất phát từ nhận thức hay cách ứng xử không theo tinh thần thượng tôn pháp luật, có thể gây ra những tổn thất không nhỏ trong quá trình hội nhập nếu không được nhận biết đầy đủ.
Rủi ro từ nhận thức
– Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về các quyền của mình: WTO buộc các quốc gia phải hành xử (bằng các quy định và thủ tục) theo cách hạn chế tối đa các rào cản thương mại. Cơ hội cũng từ đó mà mở ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tiếp cận thị trường và cạnh tranh với hàng nội địa nước nhập khẩu. Vì thế, nếu không biết về các nghĩa vụ của các quốc gia theo quy định của WTO (tương ứng với đó là quyền của doanh nghiệp) cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp bỏ qua các cơ hội mà mình lẽ ra được hưởng.
– Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về các nghĩa vụ của mình: WTO quy định các nghĩa vụ của quốc gia, nhưng đồng thời cũng gián tiếp quy định về “nghĩa vụ” của các doanh nghiệp (đặc biệt trong các biện pháp có liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thương mại công bằng). Doanh nghiệp sẽ phải trả giá rất đắt trong trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ (dù rằng việc đó xuất phát từ cố ý vi phạm hay đơn giản là vi phạm do không hiểu biết).
– Rủi ro từ việc không nhận biết đầy đủ về hệ thống pháp luật thương mại nước nhập khẩu: hoạt động thương mại trên lãnh thổ một nước phải tuân thủ hệ thống pháp luật nội địa nước đó. Ở các quốc gia nơi mọi vấn đề được xử lý theo pháp luật, không hiểu biết về pháp luật và hoặc thiếu ý thức tôn trọng pháp luật sẽ là nguy cơ lớn khi tiến hành hoạt động thương mại.
Rủi ro từ cách hành xử
– Rủi ro từ việc không thực hiện đúng cam kết, đúng pháp luật (pháp luật thương mại quốc tế hoặc pháp luật quốc gia): Cách hành xử tuỳ tiện, không tuân thủ hợp đồng hay pháp luật có thể kéo theo những thiệt hại vật chất lớn cho doanh nghiệp, bởi doanh nghiệp có thể phải chịu các hình thức bồi thường, phạt vi phạm… rất nghiêm khắc;
– Rủi ro từ việc không sử dụng, không tham gia các phương thức giải quyết tranh chấp: ứng xử theo thói quen, bỏ qua nguyên tắc, coi thường pháp luật trong trường hợp này có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề bởi (1) nếu không sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp thì doanh nghiệp không thể bảo vệ quyền lợi của mình; (2) nếu không tham gia tích cực vào các quá trình giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp sẽ tự làm mất cơ hội chứng minh cho mình.
– Rủi ro từ việc không thực hiện các bản án, quyết định giải quyết tranh chấp: Trong các tranh chấp, phán quyết của Toà hay quyết định của trọng tài có giá trị bắt buộc phải tuân thủ và pháp luật các nước có những cơ chế hữu hiệu để thực thi các phán quyết/quyết định này. Việc từ chối, bất hợp tác hay trốn tránh các nghĩa vụ này có thể phải trả những cái giá rất đắt.
(Bài trình bày tại Hội thảo “Gia nhập WTO: Những thách thức quản lý”)
TS. NGUYỄN THỊ THU TRANG – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
SOURCE: TẠP CHÍ NHÀ QUẢN LÝ
- ĐẠI HỘI CHI ĐOÀN CÔNG TY LUẬT TNHH MTV VIỆT ĐÔNG Á NHIỆM KỲ 2024-2027
- MANG THAI HỘ TẠI VIỆT NAM ĐƯỢC QUY ĐỊNH NHƯ THẾ NÀO?
- MẸ ĐƠN THÂN CÓ LÀM GIẤY KHAI SINH CHO CON ĐƯỢC KHÔNG?
- Giải quyết tranh chấp môi trường bằng phương thức hòa giải: Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện
- Sự khác nhau giữa biện pháp thuế chống bán phá giá và biện pháp thuế đối kháng theo quy định của WTO